Vướng mắc khi áp dụng tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định hiện hành

Hiện nay, việc xử lý hình sự đối với hành vi phạm tội về ma túy được áp dụng theo Bộ luật Hình sự năm 2015 từ Điều 247 đến Điều 259. Tuy nhiên, việc xác định tội danh đối với một số tội phạm liên quan đến ma túy trên thực tế nhiều lúc gặp không ít khó khăn, đặc biệt là việc xác định tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Ảnh minh họa: Các đối tượng phạm tội ma túy

Điều 251 BLHS 2015 quy định về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” như sau: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm...”. Việc xác định tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP (Thông tư 17) (được sửa đổi bằng Thông tư liên tịch 08 ngày 14/11/2015). Tại mục 3.3 của Thông tư 17 nói trên đã hướng dẫn: Hành vi mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác là hành vi bị xử lý về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Trong phạm vi bài viết này, người viết trao đổi về việc định tội danh “Mua bán trái phép chất túy” được quy định tại Điều 251 BLHS 2015 trong một vụ án cụ thể: Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 18/12/2023 Huỳnh Quốc Thương, trú tại thôn Kiên Minh, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc bị bắt quả tang khi đang thực hành vi tàng trữ trái phép 23 viên nén hình tròn màu đỏ loại hồng phiến có trọng lượng là 2,504 gam Methamphetamine. Tại CQĐT Thương khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 18/12/2023 có một người đàn ông lạ mặt gọi điện đến số điện thoại của Thương hỏi mua ma túy loại hồng phiến với giá 1.000.000 đồng, Thương đồng ý và hẹn người đàn ông này đến khu vực cầu Lam Kinh, thuộc địa phận xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc để giao ma túy, sau đó Thương lấy số ma túy trên gói vào một gói giấy bạc rồi điều kiển xe mô tô đến điểm hẹn, trên đường đi thì bị CQĐT bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy trên.

Từ nội dung vụ án, chúng ta thấy, sau khi bị bắt quả tang Thương khai nhận về việc mình đã mua ma túy, rồi tàng trữ để vừa sử dụng cho bản thân vừa bán kiếm lời, vào ngày 18/12/2023 khi Thương đang trên đường đi bán ma túy thì bị bắt quả tang. Trong vụ án này cơ quan điều tra căn cứ vào lời khai của Thương để xác định động cơ, mục đích, hành vi phạm tội để xác định tội danh ngoài ra không có chứng cứ nào khác chứng minh, bổ trợ cho lời khai nhận tội của Thương. Thực tiễn xét xử, trên cơ sở kết quả điều tra và căn cứ vào mục 3.3 của Thông tư 17 thì cơ quan tố tụng xác định hành vi mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác là phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Như vậy, động cơ, mục đích của người thực hiện hành vi phạm tội là căn cứ để phân biệt tội “Mua bán trái phép chất chất ma túy” với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh người tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán để xác định tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy”. Các tài liệu chứng minh về mục đích thực hiện hành vi phạm tội như: Lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nhân chứng, vật chứng... mà thuận lợi nhất chính là lời khai của bị can. Khi có nhiều nguồn chứng cứ thì việc đánh giá mục đích tội phạm là dễ dàng và chính xác, chúng ta không cần phải bàn luận. Vậy nhưng, trong vụ án nói trên, thì duy nhất chỉ có lời khai của Thương, ngoài ra không chứng minh được người gọi điện cho Thương để mua ma túy. Chính vì vậy, lời khai của Thương trở thành chứng cứ duy nhất để cơ quan tiến hành tố tụng xác định tội danh - đây là vấn đề mà người viết muốn đưa ra bàn luận.

Tại Điều 15 BLTTHS quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Điều 87 BLTTHS quy định lời khai, lời trình bày là một nguồn thu thập, xác định chứng cứ. Điều 98 BLHS quy định lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Tuy nhiên, trong vụ án nói trên, việc Thương khai nhận mang ma túy đi bán chỉ thể hiện duy nhất qua lời thừa nhận của Thương, ngoài ra không có chứng cứ nào khác chứng minh, bổ trợ cho lời khai này. Theo quan điểm của tác giả khi không có “chứng cứ khác” để đối chiếu với lời khai, lời nhận tội của bị can thì chưa đủ cơ sở vững chắc và thuyết phục khi chứng minh lời nhận tội của bị can là phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án để khẳng định rằng lời nhận tội của bị can có thể được coi là chứng cứ?

Như vậy, trong trường hợp cụ thể này, khi các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có duy nhất lời khai, lời nhận tội của bị can mà vẫn lấy đó để làm căn cứ định tội thì có vi phạm quy định: “Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội” tại Điều 98 BLTTHS hay không? Theo quan điểm của người viết, trong một vụ án, nếu như Công an bắt quả tang người nào đó đang có hành vi tàng trữ ma túy và họ tự khai số ma túy này là do họ mua về để sử dụng và bán kiếm lời. Trên thực tế là họ chưa bán cho bất kỳ người nào khác, hoặc không chứng minh được người mua, không có chứng cứ nào khác ngoài lời khai của họ thì cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có căn cứ để xử lý về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 BLHS, chứ không đủ căn cứ để xử lý về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 BLHS để tránh vi phạm Điều 98 BLTTHS./.

Anh Ngọc