Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng pháp luật về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại Điều 341 BLHS năm 2015

Đăng ngày 30 - 08 - 2025
100%

Trong quá trình giải quyết các vụ án “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng còn có sự khác nhau trong nhận thức và áp dụng pháp luật khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội danh này. Cụ thể:

Thứ nhất, về hành vi cung cấp thông tin để thuê người khác làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; đặt mua tài liệu giả sau đó sử dụng tài liệu giả để thực hiện hành vi trái pháp luật.

Quan điểm thứ nhất: Đối tượng cung cấp thông tin cho người làm giả nên đồng phạm với vai trò giúp sức về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, sau đó thực hiện hành vi trái pháp luật nên cần xử lý về 02 tội là tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức, được quy định tại Điều 341 BLHS; nhưng khi quyết định hình phạt sẽ quyết định một mức hình phạt chung vì cả 02 tội này được quy định trong cùng một điều luật. Đồng thời, khi viện dẫn điều luật để truy cứu trách nhiệm hình sự cũng phát sinh vướng mắc, có quan điểm cho rằng chỉ viện dẫn nguyên văn điều luật gộp đối với cả hai tội, nhưng cũng có quan điểm cho rằng cần viện dẫn điều luật đối với từng tội.

Quan điểm thứ hai (xử lý về 01 tội): Mặc dù đối tượng có hành vi cung cấp thông tin, tuy nhiên việc cung cấp thông tin để làm tài liệu giả nhằm mục đích sử dụng tài liệu đó nên chỉ xử lý về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; cũng có nơi chỉ xử lý về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Quan điểm thứ ba: Cần xử lý cả 02 tội độc lập (tội làm giả và tội sử dụng tài liệu giả...) và khi truy tố xét xử sẽ tuyên hình phạt đối với từng tội, sau đó sẽ tổng hợp hình phạt

Nội dung trên đã được TAND tối cao giải đáp tại Công văn số 196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử, trong đó hướng dẫn trường hợp bị cáo có hành vi nhờ người khác làm giả giấy đi đường, sau đó sử dụng giấy tờ giả đó đề thực hiện hành vi trái pháp luật thì xử lý như sau: “Điều 341 BLHS 2015 quy định về tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Đây là hai tội danh độc lập được quy định trong cùng một điều luật. Nếu các hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành hai tội này thì bị cáo phải bị truy tố, xét xử hai tội danh độc lập, sau đó tổng hợp hình phạt.

Trường hợp bị cáo không phải là người trực tiếp làm giả giấy đi đường mà chỉ có hành vi nhờ người khác làm giả giấy đi đường, sau đó sử dụng thực hiện hành vi trái pháp luật. Trường hợp này bị cáo phạm tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, mà không cấu thành tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tuy nhiên nội dung này chỉ đề cập đến đối tượng ở diện hẹp và cụ thể là nhờ người khác làm giả đối với giấy đi đường; còn các hành vi thuộc diện rộng hơn như cung cấp thông tin, hình ảnh để mua hoặc thuê người không quen biết (trên mạng) làm giả các giấy tờ như: Căn cước công dân, văn bằng chứng chỉ hay Giấy CNQSDĐ...để thực hiện hành vi trái pháp luật thì có phạm tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức không?

Hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức là hành vi làm con dấu giả, làm tài liệu hoặc giấy tờ giả khác của cơ quan, tổ chức giống như thật bằng phương pháp và thủ đoạn khác nhau. Có thể tự mình làm hoặc nhờ, thuê người khác làm. Nếu chỉ xem xét xử lý đối với người trực tiếp làm mà không xử lý đối với người nhờ, thuê làm thì không thỏa đáng. Thực tế rất khó tìm ra đối tượng trực tiếp làm giả để xử lý vì đa số là thuê trên mạng. Mặt khác nếu chỉ xử lý người trực tiếp làm, thì những đối tượng khi bị phát hiện đều khai là thuê, nhờ người không rõ nhân thân, địa chỉ làm giả, nên không thể tìm được.

Nhiều trường hợp ngoài việc thuê làm giấy tờ giả cho mình còn cung cấp thông tin để thuê làm giả cho người khác (bạn bè, người quen, nghiệp...); Trong đó cũng có trường hợp đứng trung gian để nhận tiền và cung cấp thông tin của người có nhu cầu rồi chuyển cho đối tượng làm giả để hưởng lợi. Vậy những trường hợp này, hành vi đối tượng trung gian được đánh giá là đồng phạm làm giả hay là đồng phạm sử dụng. Đây là những bất cập cần được hướng dẫn.

Thứ hai, đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả như giấy tờ tùy thân, bằng cấp, chứng chỉ giả (ví dụ: sử dụng giấy phép lái xe giả, đăng ký xe giả... để lưu hành; hay hành vi sử dụng văn bằng giả để lừa dối cơ quan tổ chức như đi thi, đi xin việc..) đây là hành vi lừa dối cơ quan, tổ chức, đã vi phạm các quy định về pháp luật quản lý hành chính, nhưng có nơi vẫn xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng đối với hành vi nêu trên chỉ bị xử phạt hành chính trong lĩnh vực liên quan theo quy định của pháp luật. Đối với từng quan điểm đã có hướng dẫn của các vụ nghiệp vụ của Cơ quan tư pháp Trung ương tuy nhiên vẫn còn chưa thống nhất. Cụ thể tại Công văn số 71/TANDTC-V1 ngày 03/8/2020 của Vụ 1 Tòa án nhân dân tối cao gửi Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (CO1) và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên (PC01) nhận định: “Theo quy định tại Điều 341 BLHS năm 2015 về tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức thì người phạm tội này khi thực hiện hành vi khách quan là sử dụng giấy tờ giả để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Đối với 30 trường hợp được nêu trong Công văn, được xác định đã có hành vi vi phạm là sử dụng giấy phép lái xe giả để lưu thông. Hành vi vi phạm này có dấu hiệu của tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức, nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, nên không cấu thành tội phạm (theo quy định tại khoản 2 Điều 8 BLHS năm 2015), mà chỉ thuộc phạm vi xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 21 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ thì đây là hành vi sử dụng giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp. Do đó, Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh TN đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với người vi phạm là phù hợp”. Liên quan đến vụ việc Liên ngành tư pháp tỉnh Thái Nguyên xin thỉnh thị này thì Vụ 2 Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Công văn 903/VKSTC-V2 ngày 10/3/2020 lại có nhận định: “Xét thấy, các trường hợp lái xe ô tô sử dụng giấy phép lái xe giả, khi Cảnh sát giao thông kiểm tra đã sử dụng giấy phép đó để xuất trình nêu trên, là hành vi không tuân thủ các quy định của pháp luật về giao thông đường bộ. Đây là hành vi trái pháp luật. Hành vi này đã có địa phương khởi tố để xử lý về hình sự. Trong đó có vụ được ghi trong Án lệ số 18/2018 công bố theo Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06/11/2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, việc xác định hành vi của các đối tượng nêu trên có dấu hiệu phạm tội Sử dụng tài liệu giả của Cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự là có căn cứ”. Sau khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao trả lời bằng 02 văn bản trên thì Văn phòng Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã có văn bản số 4512/C01-P5 ngày 10/8/2020 trả lời liên ngành tư pháp tỉnh Thái Nguyên như sau: “Hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả của những người vi phạm giao thông nêu trên có dấu hiệu của tội Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của Cơ quan tổ chức quy định tại khoản 1 Điều 341. Tuy nhiên tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể nên liên ngành tư pháp tỉnh Thái Nguyên có thể áp dụng khoản 2 Điều 8 Bộ luật hình sự để xử lý bằng biện pháp khác”.

Ở một vụ án có nội dung hành vi tương tự do Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định xin thỉnh thị thì Vụ 7 – VKSND tối cao đã có văn bản số 2915/VKSTC-V7 ngày 21/7/2023 trả lời với quan điểm giống với Vụ 1 Tòa án nhân dân tối cao và Văn phòng Cơ quan CSĐT Bộ Công an trong vụ việc tại Thái Nguyên.

 Như vậy, cùng 01 hành vi nhưng các Cơ quan tư pháp ở Trung ương cũng chưa thống nhất quan điểm xử lý. Thực tiễn, cùng một hành vi sử dụng giấy tờ giả nêu trên nhưng có nơi xử lý truy cứu trách nhiệm hình sự, có nơi xử lý về hành chính, vì vậy cần kiến nghị nội dung này để thống nhất xử lý.

Viện trưởng VKSND khu vực 4 thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa hình sự.

Thứ ba, về vấn đề đối tượng thuê người khác làm giả tài liệu, sau đó sử dụng tài liệu giả để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì có quan điểm phải xử lý 02 tội là tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174) và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” (Điều 341), nhưng cũng có quan điểm là chỉ xử lý hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Về vấn đề này hiện nay các đơn vị nghiệp vụ của VKSND tối cao và TAND tối cao có nhiều văn bản hướng dẫn nghiệp vụ đối với địa phương, tuy nhiên một số văn bản có mâu thuẫn chưa thống nhất, dẫn đến gây khó khăn vướng mắc cho các cơ quan tố tụng khi giải quyết các vụ án cụ thể:

- Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của TAND tối cao thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử và Công văn số 233/TANDTC-PC ngày 10/01/2019 của TAND tối cao về trao đổi nghiệp vụ thống nhất hướng dẫn: Hành vi làm giả giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức để lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã xâm phạm vào 02 khách thể khác nhau được BLHS bảo vệ (quy định tại Điều 174 và Điều 341 của BLHS), nên nếu hành vi đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử lý hình sự cả về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) và tội Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức (Điều 341).

- Công văn số 50 ngày 7/4/2020 của Vụ pháp chế TAND tối cao hướng dẫn TAND tỉnh Hà Giang lại có quan điểm: Người có hành vi sử dụng giấy tờ giả để lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì chỉ bị xử lý về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Vụ pháp chế (Vụ 14 và Vụ 7) VKSND tối cao Hướng dẫn trong mục giải đáp pháp luật năm 2020 có nêu hành vi thuê người làm giả giấy tờ tài liệu của cơ quan, tổ chức sau đó sử dụng để lừa đảo thì xử lý về tội Sử dụng tài liệu giả và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lại mâu thuẫn với nhiều bản án đã tuyên, ví dụ Bản án số 768/2022/HS-PT ngày 10/10/2022 của TAND cấp cao 3 tại TP HCM.

Kiến nghị đề xuất:

Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì các Công văn hướng dẫn đơn ngành của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an không phải là văn bản quy phạm pháp luật và ở phần kết thúc của các văn bản này cũng chỉ nêu đó là quan điểm của Cơ quan hướng dẫn nên tính có hiệu lực để thi hành của các văn bản này cũng chưa mang tính bắt buộc. Do đó với những khó khăn, vướng mắc mà đã tổng hợp trên, Kiến nghị liên ngành tư pháp Trung ương ban hành Thông tư liên tịch hoặc Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết hướng dẫn về tội danh “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan tổ chức" quy định tại Điều 341 Bộ luật hình sự nhằm đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong việc giải quyết vụ việc, vụ án./.

<

Tin mới nhất

Bỏ hình phạt tử hình đối với tội vận chuyển trái phép chất ma túy - Góc nhìn từ một phiên tòa tại...(15/09/2025 10:36 CH)

Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng pháp luật về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức;...(30/08/2025 6:05 CH)

Bị cáo thực hiện hành vi Mua bán trái phép hoá đơn nhằm mục đích trốn thuế thì phạm những tội gì?(19/08/2025 4:48 CH)

Một số khó khăn, vướng mắc khi xử lý các vụ án sử dụng dao có tính sát thương cao xâm phạm tính...(23/07/2025 5:56 SA)

Một số vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng Điều 49 Bộ luật Hình sự (02/07/2025 8:49 SA)

Trao đổi nghiệp vụ trong việc giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình về việc tranh chấp xác định...(27/04/2025 1:09 CH)

VƯỚNG MẮC KHI GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ VỀ YÊU CẦU CHẤM DỨT NUÔI CON NUÔI(10/01/2025 4:18 CH)

VKSND huyện Thọ Xuân: Sinh hoạt chuyên đề định kỳ về công tác kiểm sát giải quyết án dân sự (07/10/2024 10:33 SA)

Đánh giá của bạn về cổng thông tin điện tử
294 người đã bình chọn
°
2522 người đang online