Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh, sửa bản án dân sự sơ thẩm do vi phạm trong việc tính lãi suất và áp dụng pháp luật

Đăng ngày 26 - 07 - 2024
100%

Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm, VKSND tỉnh Thanh Hóa nhận thấy vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn: Bà Lưu Thị H1 và bị đơn: Anh Vũ Hoàng H, chị Nguyễn Thị Th được giải quyết tại Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2024/DS-ST, ngày 01/3/2024 của Tòa án nhân dân huyện TX có nhiều vi phạm nên đã kháng nghị và Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm. VKSND tỉnh đã ban hành Thông báo để các VKSND cấp huyện rút kinh nghiệm chung.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa

        Nội dung vụ án: Ngày 09/6/2010, vợ chồng anh Vũ Hoàng H và chị Nguyễn Thị Th vay của bà Lưu Thị H1 950.000.000 đồng, giấy vay tiền không ghi mức lãi suất cụ thể và cũng không ghi thời hạn trả nợ gốc và lãi. Ngày 13/9/2023, bà H1 khởi kiện yêu cầu TAND huyện TX giải quyết buộc anh H và chị Th phải trả nợ số tiền gốc 950.000.000 đồng và tiền lãi theo lãi suất 1,5%/tháng tính từ ngày 09/6/2010 đến ngày xét xử sơ thẩm 01/3/2024 là 2.280.000.000 đồng tiền lãi. Tổng cộng cả tiền gốc và tiền lãi là 3.230.000.000 đồng. Ngoài ra bà H1 còn yêu cầu trả lãi cho đến khi thanh toán xong nợ.

        Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2024/DS-ST, ngày 01/3/2024 của Tòa án nhân dân huyện TX, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lưu Thị H1, áp dụng mức lãi suất 10%/năm buộc anh Vũ Hoàng H và chị Nguyễn Thị Th có trách nhiệm trả nợ cho bà Lưu Thị H1 tổng số tiền nợ gốc, nợ lãi tính từ ngày 09/6/2010 đến ngày 01/3/2024 là 2.154.232.877 đồng, trong đó: Nợ gốc 950.000.000 đồng, nợ lãi 1.204.232.877 đồng; Bản án tuyên về nghĩa vụ chịu án phí của các bên trong vụ án.

Theo nội dung Thông báo rút kinh nghiệm của VKSND tỉnh, Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2024/DS-ST ngày 01/3/2024 của TAND huyện TX có những vi phạm sau:

 - Về áp dụng pháp luật:

Căn cứ giấy vay tiền mặt, xác định hai bên giao dịch vào ngày 09/6/2010. Tại thời điểm này Bộ luật dân sự 2005 đang có hiệu lực nên được áp dụng theo Bộ luật này đến trước ngày 01/01/2017, kể từ ngày 01/01/2017 áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết theo quy định tại Điều 688 là Điều khoản chuyển tiếp của Bộ luật dân năm 2015. Bản án dân sự sơ thẩm trên chỉ áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 để giải quyết là không đúng với quy đinh tại Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Về việc tính lãi suất:

Đây là hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn, có tranh chấp về lãi suất. Bản án sơ thẩm trên áp dụng khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 để tính lãi suất 10%/năm, kể từ ngày 09/6/2010 đến ngày 01/3/2024 là chưa chính xác. Trong trường hợp này phải áp dụng điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; khoản 2 Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; quy định về lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước để tính lãi trong vụ án trên, như sau:

Cụ thể: Thời gian từ ngày 09/6/2010 đến ngày 04/11/2010 là 149 ngày, lãi suất cơ bản Ngân hàng nhà nước quy định là 8%/năm. Do đó, tiền lãi giai đoạn này là: 950.000.000 đồng X 8%/365 ngày X 149 ngày = 31.024.657 đồng.

Thời gian từ ngày 05/11/2010 đến 31/12/2016 (06 năm 56 ngày = 2.246 ngày), lãi suất cơ bản Ngân hàng nhà nước quy định là 9%/năm. Do đó, tiền lãi giai đoạn này là: 950.000.000 đồng X 9%/365 ngày X 2.246 ngày = 526.117.808 đồng.

Thời gian từ 01/01/2017 đến ngày 01/3/2024 (07 năm 60 ngày = 2.615 ngày), áp dụng lãi suất 10% năm theo khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015. Do đó, tiền lãi giai đoạn này là: 950.000.000 đồng X 10%/365 ngày X 2.615 ngày = 680.616.438 đồng.

Tổng tiền lãi anh H, chị Th phải trả cho bà H1 từ ngày 09/6/2010 đến 01/3/2024 là: 31.024.657 + 526.117.808 + 680.616.438 = 1.237.758.903 đồng, vì anh H, chị Th đã trả 100.000.000 đồng liền lãi cho bà H1 nên còn nợ bà H1 1.137.758.903 đồng tiền lãi.

Như vậy, anh H, chị Th tính đến ngày 01/3/2024 còn nợ bà H1 gốc và tiền lãi là 2.087.758.903 đồng (gốc 950.000.000 đồng, tiền lãi 1.137.758.903 đồng) mới đúng. Tiền lãi bà H1 đề nghị không được Tòa án chấp nhận là 2.280.000.000 đồng - 1.137.758.903 đồng = 1.142.241.097 đồng, nhưng vì bà H1 là người cao tuổi nên bà H1 không phải chịu án phí phần yêu cầu tiền lãi không được Tòa án chấp nhận.

Do đó, anh H, chị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm giá ngạch là 73.755.178 đồng.

Với những vi phạm trên, VKSND tỉnh đã ban hành kháng nghị phúc thẩm, kết quả: Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND tỉnh chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm.

VKSND tỉnh đã ban hành Thông báo rút kinh nghiệm yêu cầu các đơn vị nghiên cứu, rút kinh nghiệm chung, kịp thời phát hiện các dạng vi phạm tương tự để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản./.

<

Tin mới nhất

VKSND các huyện Hà Trung, Hậu Lộc, Thạch Thành tiến hành hoạt động trực tiếp công tác tạm giữ,...(05/09/2024 3:46 CH)

Xét rút ngắn thời gian thử thách án treo, giảm thời hạn chấp hành án cải tạo không giam giữ tại...(05/09/2024 3:08 CH)

VKSND thành phố Sầm Sơn kiểm sát việc cưỡng chế thi hành án dân sự(04/09/2024 4:06 CH)

Tăng cường phối hợp tổ chức các phiên tòa trực tuyến theo Nghị quyết 33/2021/QH15(04/09/2024 3:53 CH)

Phê chuẩn khởi tố bị can, Lệnh tạm giam đối tượng vận chuyển 6kg ma túy từ Lào về Việt Nam(04/09/2024 3:33 CH)

TAND cấp cao tại Hà Nội chấp nhận toàn bộ kháng nghị của VKSND tỉnh Thanh Hóa, sửa bản án dân sự...(04/09/2024 10:40 SA)

Kiểm sát trực tiếp việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố...(04/09/2024 8:27 SA)

Phê chuẩn khởi tố bị can các đối tượng thuê xe ô tô tự lái rồi làm giả giấy tờ mang đi bán, cầm cố(30/08/2024 4:34 CH)

Đánh giá của bạn về cổng thông tin điện tử
253 người đã bình chọn
°
1615 người đang online