Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 (có hiệu lực từ 01/01/2025) lần đầu tiên quy định cụ thể về dao có tính sát thương cao và phân loại quản lý theo mục đích sử dụng: nếu dùng để phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe thì được xem là “vũ khí quân dụng”; nếu dùng để gây rối, chống người thi hành công vụ thì là “vũ khí thô sơ”; còn nếu dùng vào mục đích sinh hoạt, lao động thì không bị điều chỉnh.

Tuy nhiên, trong thực tiễn xử lý các vụ án hình sự sau ngày luật có hiệu lực đã phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc. Cụ thể:
1. Về xác định tội danh: Một số vụ án về các tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người (ví dụ: cố ý gây thương tích,…) mà người thực hiện hành vi dùng dao có tính sát thương cao thì truy cứu trách nhiệm hình sự về 02 tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” và tội “Cố ý gây thương tích” nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về 01 tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung “dùng hung khí nguy hiểm”.
2. Về xác định thời điểm sử dụng vũ khí quân dụng:
Một số quan điểm cho rằng chỉ cần mang theo dao với mục đích xâm phạm sức khỏe, tính mạng của người khác là đủ yếu tố cấu thành. Quan điểm này dựa trên điểm d khoản 2 Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024, trong đó xác định vũ khí quân dụng là dao có tính sát thương cao sử dụng với mục đích xâm phạm, tính mạng, sức khỏe con người trái pháp luật chứ không quy định rõ là đã xâm phạm thì mới xác định là vũ khí quân dụng. Quan điểm khác lại yêu cầu hành vi khách quan cụ thể (như đâm, chém) mới đủ để coi là sử dụng vũ khí quân dụng. Đồng thời, cũng còn tranh luận về việc đối với hành vi này có cần thiết phải gây ra hậu quả trên thực tế (như gây thương tích hoặc chết người) hay không.
3. Về thẩm quyền giải quyết vụ án:
Trước đây, các vụ án hình sự có đối tượng sử dụng dao có tính sát thương cao để phạm tội “Giết người”, “Cố ý gây thương tích”… đều do Cơ quan Cảnh sát điều tra thụ lý. Tuy nhiên, hiện nay, nếu xác định hành vi sử dụng dao đó cấu thành tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo Điều 304 BLHS, thì vụ án thuộc thẩm quyền của Cơ quan ANĐT Công an tỉnh theo khoản 1, 2 Điều 17 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự. Như vậy, các vụ việc này có thể sẽ được chuyển đến Cơ quan ANĐT Công an tỉnh để giải quyết. Điều này dẫn đến lúng túng trong thực tiễn, do chưa có tiền lệ và chưa có hướng dẫn, quy định cụ thể.
Qua nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, một số văn bản hướng dẫn của TAND tối cao, Bộ Công an và hướng dẫn của VKSND tối cao, tôi tổng hợp 02 quan điểm hướng dẫn như sau:
- Quan điểm thứ nhất (theo Công văn số 1279/VKSTC-V14 ngày 25/3/2025 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao): hướng dẫn VKSND tỉnh Quảng Ninh áp dụng Điều 304 Bộ luật Hình sự: Căn cứ vào các quy định tại các khoản 2, 4, 6 Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024; tinh thần quy định tại khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 03/2022/NQ-HĐTP ngày 09/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự (cụ thể là các Điều 304, 305, 306, 307 và 308); cùng với Thông tư số 75/2024/TT-BCA ngày 15/11/2024 của Bộ Công an, thì có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi dùng dao sắc, nhọn, kiếm, giáo, mác, thương, dao găm, lưỡi lê, đao, mã tấu dao sắc, nhọn (thuộc Phụ lục 5 - Danh mục dao có tính sát thương cao, ban hành kèm theo Thông tư số 75)... để thực hiện tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người (ví dụ: giết người, cố ý gây thương tích...) về hai tội danh: (1) Tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng (nếu vật được sử dụng là vũ khí quân dụng theo quy định); (2) Và tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe tương ứng theo kết quả điều tra, truy tố.
- Quan điểm thứ hai: Trong trường hợp người phạm tội sử dụng dao có tính sát thương cao phạm tội “Cố ý gây thương tích” thì tình tiết sử dụng hung khí đã được xem là dấu hiệu định khung trong cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”. Do đó, không xử lý thêm về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”, nhằm tránh xử lý trùng lặp, vì một hành vi chỉ bị xử lý một lần. Việc truy cứu thêm về Điều 304 BLHS trong trường hợp này sẽ gây bất lợi cho người phạm tội vì đã “đã định khung thì không định tội”.
Quan điểm của bản thân như sau:
Thứ nhất, phải làm rõ về thời điểm xác định “dao có tính sát thương cao” là vũ khí quân dụng. Theo tôi, chỉ khi đã sử dụng dao có tính sát thương cao với mục đích xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác một cách trái pháp luật thì mới có căn cứ xác định đó là “vũ khí quân dụng” theo quy định pháp luật.
Căn cứ tại điểm d khoản 2 Điều 2 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2024 quy định: “Súng săn, vũ khí quy định tại điểm a khoản 4, vũ khí quy định tại điểm a khoản 5 và dao có tính sát thương cao quy định tại khoản 6 Điều này sử dụng với mục đích xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người trái pháp luật.” Trong đó: “sử dụng với mục đích” được hiểu là hành vi đã thực hiện việc sử dụng, không phải mới chỉ chuẩn bị, mang theo. Việc suy luận rằng “chỉ cần có mục đích xâm phạm trái pháp luật” là yếu tố then chốt, không cần đợi đến hành vi sử dụng thực tế như một số quan điểm hiện tại là không bảo đảm logic lập pháp, đánh giá không đúng bản chất hành vi. Một người mang theo dao dù có tính sát thương cao, nếu chưa thực hiện hành vi cụ thể nào (như đâm, chém…) thì chưa thể nói là đã sử dụng. Bởi lẽ, “mục đích” là yếu tố chủ quan, rất khó chứng minh nếu không gắn liền với hành vi khách quan cụ thể.
Căn cứ Nghị quyết số 03/2022/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn: “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng là hành vi sử dụng nhằm phát huy tác dụng của vũ khí. Ví dụ: đối với súng quân dụng là lên đạn, bóp cò; đối với lựu đạn là rút chốt, giật nụ xùy.” Trong đó nhấn mạnh rằng “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” được hiểu là có hành vi khách quan cụ thể nhằm phát huy tác dụng của vũ khí, không phải chỉ là có ý định sử dụng. Đối với dao có tính sát thương cao, tương tự như đối với súng hay lựu đạn, hành vi “sử dụng” phải là các hành vi như đâm, chém nhằm gây thương tích người khác trái pháp luật. Chỉ khi đó, dao có tính sát thương cao mới thỏa mãn điều kiện trở thành “vũ khí quân dụng” theo đúng quy định của pháp luật. Việc hiểu như trên sẽ giúp: Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội, tránh việc hình sự hoá những hành vi chưa xảy ra, phù hợp với tinh thần của luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành hiện tại.
Thứ hai, kể cả trong trường hợp sử dụng dao có tính sát thương cao mà chưa gây ra hậu quả thực tế (ví dụ như chém hụt, nạn nhân tránh được...) thì vẫn có thể xác định là hành vi “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” nếu hành vi đó thể hiện rõ ý chí xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác trái pháp luật. Vấn đề này cần được làm rõ như sau: Nếu hiểu sử dụng là phải gây ra hậu quả cụ thể như chém trúng, đâm trúng thì cũng không phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 03/2022/NQ-HĐTP. Nghị quyết này xác định rõ rằng “sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” là hành vi nhằm phát huy tác dụng của vũ khí, ví dụ như lên đạn, bóp cò đối với súng, hoặc rút chốt, giật nụ xùy đối với lựu đạn - không cần bắn trúng hay gây nổ. Tương tự, hành vi dùng dao có tính sát thương cao chém, đâm người khác dù chưa gây ra hậu quả cụ thể nhưng thể hiện rõ ý định nhằm phát huy tác dụng nguy hiểm của dao có tính sát thương cao, xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác trái pháp luật - thì vẫn phải xác định đây là hành vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Nếu đợi đến khi có hậu quả mới xem là “sử dụng” thì sẽ bỏ lọt những hành vi nguy hiểm, không còn khả năng răn đe, phòng ngừa tội phạm. Cách hiểu này vừa bảo đảm nguyên tắc pháp lý đã được hướng dẫn thống nhất, vừa giúp phòng ngừa và xử lý kịp thời các hành vi nguy hiểm, không đợi đến khi hậu quả xảy ra mới can thiệp. Đồng thời, nó cũng tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm trong những tình huống đối tượng có hành vi tấn công rõ ràng nhưng chưa đạt được hậu quả chỉ vì yếu tố khách quan.
Thứ ba, quan điểm của bản thân về việc xử lý đồng thời hai tội danh. Từ góc độ lý luận hình sự cũng như hướng dẫn của các cơ quan tiến hành tố tụng trung ương, đặc biệt là Công văn số 1279/ VKSTC-V14 ngày 25/3/2025 của VKSND tối cao và Công văn số 233/TANDTC-PC ngày 01/10/2019 của TAND tối cao về việc trao đổi nghiệp vụ, bản thân cho rằng: Trong trường hợp người phạm tội sử dụng dao có tính sát thương cao nhằm mục đích gây thương tích cho người khác, thì cần thiết phải xử lý đồng thời hai tội danh, gồm: tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo Điều 304 và tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 hoặc tội “Giết người” theo Điều 123 Bộ luật Hình sự, nếu mỗi hành vi đều thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Bởi vì:
- “Trường hợp người thực hiện 01 hành vi nhưng thỏa mãn dấu hiệu cấu thành của nhiều tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nặng hơn” (ví dụ như hành vi đốt ô tô để khủng bố - chỉ xử lý tội khủng bố).
- “Trường hợp người thực hiện nhiều hành vi (chuỗi hành vi) một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, trong đó, hành vi trước là tiền đề, điều kiện để thực hiện hành vi sau thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về nhiều tội tương ứng với từng hành vi, nếu mỗi hành vi đều có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.” (như hành vi làm giả giấy tờ để lừa đảo, hoặc dùng súng bắn chết người).
Như vậy, tương tự thì hành vi dùng dao có tính sát thương cao với mục đích xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của người khác cũng phải bị xử lý đồng thời về Điều 304 và Điều 123 hoặc Điều 134 BLHS. Bởi lẽ, hành vi sử dụng dao có tính sát thương cao nhằm mục đích xâm phạm sức khoẻ, tính mạng của người khác trái pháp luật đã xâm phạm hai khách thể khác nhau nên đã cấu thành tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” và tội “Cố ý gây thương tích” hoặc “Giết người”.
Hai hành vi này được xem như là chuỗi hành vi liên tục, kế tiếp nhau, mỗi hành vi đều có đủ yếu tố cấu thành một tội độc lập, có dấu hiệu đặc trưng riêng và xâm phạm hai khách thể khác nhau: (1) sức khỏe, tính mạng của con người - thuộc đối tượng điều chỉnh của Điều 123 và Điều 134 và (2) chế độ quản lý của Nhà nước đối với vũ khí quân dụng - thuộc Điều 304 Bộ luật hình sự. Do đó, đây là hai cấu thành không trùng lặp, không chồng lấn. Vì vậy phải bị xử lý về các tội danh tương ứng. Nếu chỉ xử lý về một tội sẽ dẫn đến bỏ lọt hành vi xâm hại một khách thể khác mà pháp luật đã hình sự hóa độc lập.
Việc xử lý đồng thời như vậy là hoàn toàn có cơ sở pháp lý, phù hợp với nguyên tắc xác định tội danh trong luật hình sự, phù hợp với hướng dẫn của TAND tối cao, bảo đảm không bỏ lọt hành vi phạm tội, đồng thời bảo vệ đầy đủ các khách thể bị xâm hại mà pháp luật hình sự đặt ra.
Thứ tư, trong trường hợp đã xử lý người phạm tội về Điều 304 thì có thể tiếp tục áp dụng tình tiết định khung “dùng vũ khí, hung khí nguy hiểm” tại Điều 134 hay không? Có quan điểm cho rằng áp dụng như vậy sẽ gây bất lợi cho người phạm tội vì đã “đã định khung thì không định tội”.
Tuy nhiên, cách hiểu này là không phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành. Bởi vì: Theo khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự, chỉ có quy định các tình tiết đã là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Tức là, luật chỉ không cho phép áp dụng tình tiết làm yếu tố tăng nặng nếu nó đã là dấu hiệu định tội hoặc định khung. Trong trường hợp này, tình tiết “sử dụng dao có tính sát thương cao” không phải là tình tiết tăng nặng mà là tình tiết định tội tại Điều 304 Bộ luật hình sự, đồng thời cũng là tình tiết định khung tại Điều 134 Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó, đây là hai tội danh độc lập, pháp luật hiện hành không cấm việc một tình tiết đã sử dụng để định tội thì không được sử dụng để định khung và ngược lại.
Kiến nghị: Liên ngành tư pháp trung ương cần ban hành hướng dẫn thống nhất về việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án liên quan dao có tính sát thương cao. Trường hợp hành vi sử dụng dao đã đủ yếu tố cấu thành hành vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng và có hậu quả xâm phạm tính mạng, sức khỏe, cần xử lý đồng thời hai tội danh tương ứng theo Điều 304 và Điều 123 hoặc Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, cần quy định rõ thẩm quyền giải quyết đối với các vụ án có hành vi sử dụng dao thuộc danh mục “vũ khí quân dụng” để tránh chồng chéo giữa các cơ quan tiến hành điều tra. Có thể giao cho một cơ quan điều tra chủ trì nhằm bảo đảm tính toàn diện, khách quan và hiệu quả trong giải quyết vụ án./.