Trong quá trình giải quyết vụ án liên quan đến thuốc Đông y giả tại đơn vị chúng tôi còn thấy khó khăn khi xác định tội danh liên quan đến là thuốc Đông y giả do sự ly lai giữa các tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS, Lừa dối khách hàng theo quy định tại Điều 198 BLHS và Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh theo quy định tại Điều 194 BLHS…
Hiện nay, thị trường thuốc Đông y đặc biệt là “mác gia truyền” đang bị buông lỏng quản lý, khiến nhiều sản phẩm kém chất lượng, trộn tân dược độc hại trôi nổi ra thị trường, đe dọa sức khỏe người dân. Việc làm giả thuốc Đông y ngày càng trở nên tinh vi như chia nhỏ quy trình sản xuất, dùng giấy tờ giả, lợi dụng các nền tảng mạng xã hội để tiếp cận người tiêu dùng. Trong khi đó, hệ thống kiểm nghiệm thuốc vẫn thiếu thiết bị hiện đại, không đủ năng lực kiểm nghiệm nhanh, xử phạt lại chưa đủ sức răn đe.

Ví dụ: Nguyễn Văn A có kinh nghiệm bán hàng online các loại sản phẩm Đông y và thực phẩm chức năng. Nắm bắt được nhu cầu sử dụng sản phẩm Đông y để điều trị của các bệnh nhân gặp vấn đề về xương khớp, Nguyễn Văn A đã đặt mua loại sản phẩm dạng viên hoàn không rõ nguồn gốc xuất xứ trên mạng xã hội, và các loại hộp, nhãn mác để in và tự đóng gói thành phẩm loại thuốc có tên “Z” (tên thuốc do A tự nghĩ ra), sau đó A thuê nhân viên giả danh các nhà thuốc Đông y gia truyền gọi điện thoại cho bệnh nhân để bán sản phẩm Đông y “Z”. Kết luận giám định xác định toàn bộ thành phần trên bao bì của thuốc Đông y “Z” mà A bán là “âm tính” và không có tác dụng chữa bệnh xương khớp; thuốc Đông y này chưa được bảo hộ tại Việt Nam. Như vậy, bản thân Nguyễn Văn A có hành vi sản xuất, buôn bán thuốc Đông y giả, sau đó dùng mạng xã hội gian dối để bán cho khách hàng nhằm chiếm đoạt tài sản.
Khó khăn thứ nhất là việc xác định tội danh đối với Nguyễn Văn A có 03 quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Hành vi của Nguyễn Văn A cấu thành tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh theo quy định tại tại Điều 194 Bộ luật Hình sự do thuốc Đông y “Z” mà A bán không có thành phần, tác dụng như trên bao bì sản phẩm (giả hoàn toàn).
Quan điểm thứ hai: Hành vi của Nguyễn Văn A không cấu thành tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh vì phải có hàng thật thì mới có hàng giả. Tên thuốc Đông y “Z” mà A bán là do A tự nghĩ ra, thành phần và công dụng không giống như in trên bao bì và lời quảng cáo của A nên hành vi của A phạm tội lừa dối khách hàng theo quy định tại Điều 198 Bộ luật Hình sự.
Quan điểm thứ ba: Hành vi của Nguyễn Văn A không cấu thành tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh vì phải có hàng thật thì mới có hàng giả. Tên thuốc Đông y “Z” mà A bán là do A tự nghĩ ra, thành phần và công dụng không giống như in trên bao bì và lời quảng cáo của A (giả hoàn toàn) nên hành vi của A cũng không phạm tội lừa dối khách hàng theo quy định tại Điều 198 Bộ luật Hình sự mà hành vi của A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Khó khăn thứ hai ảnh hưởng đến việc định tội danh đối với hành vi của A trong vụ án trên nằm ở yếu tố kỹ thuật giám định. Việc xác định một loại sản phẩm Đông y là “thuốc” hay là “giả” đòi hỏi phải có kết luận giám định từ cơ quan chuyên môn có thẩm quyền. Tuy nhiên, đối với Đông y - vốn có thành phần phức tạp, nhiều loại dược liệu không được kiểm soát chặt chẽ nên việc giám định thành phần, hoạt chất và hiệu quả điều trị gặp nhiều vướng mắc.
Vì có những quan điểm khác nhau như trên dẫn đến việc xử lý, đấu tranh với loại tội phạm trên gặp nhiều khó khăn, vụ án phải kéo dài. Vì vậy, kiến nghị liên ngành tư pháp Trung ương sớm ban hành văn bản hướng theo hướng:
Thứ nhất, thống nhất tiêu chí pháp lý để xác định “hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh” trong lĩnh vực Đông y. Làm rõ: “Hàng giả là thuốc chữa bệnh” bao gồm cả trường hợp sản phẩm mang danh là thuốc nhưng không có bất kỳ hoạt chất nào có tác dụng chữa bệnh, kể cả khi không có “hàng thật”.
Như vậy, dù người phạm tội tự đặt tên thuốc “Z” và tự in bao bì, nhưng sản phẩm đó vẫn được xem là thuốc giả theo Điều 194 Bộ luật Hình sự nếu được quảng cáo, đóng gói, bán ra thị trường như một loại thuốc chữa bệnh. Hướng này giúp phân biệt rõ giữa tội “hàng giả là thuốc” và “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” trong trường hợp có yếu tố sản xuất, đóng gói, quảng bá như thuốc thật.
Thứ hai, xác định rõ ranh giới giữa ba tội danh thường bị “lẫn” nhau:
- Điều 194 Bộ luật Hình sự (Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh): Áp dụng khi có hành vi tạo ra sản phẩm có hình thức, công dụng, bao bì thể hiện là thuốc nhưng thực chất không có giá trị điều trị hoặc bị làm giả.
- Điều 198 Bộ luật Hình sự (Lừa dối khách hàng): Áp dụng khi hành vi gian dối trong khâu mua bán, đo lường, giao dịch thương mại mà không có yếu tố làm giả hàng hóa.
- Điều 174 Bộ luật Hình sự (Lừa đảo chiếm đoạt tài sản): Áp dụng khi hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản, không nhất thiết phải sản xuất hoặc buôn bán hàng giả.
Kiến nghị liên ngành nên ban hành hướng dẫn chi tiết tiêu chí phân biệt ba tội này để Cơ quan điều tra - kiểm sát - xét xử có căn cứ thống nhất khi định tội danh.
Thứ ba, ban hành quy trình giám định đặc thù đối với “thuốc Đông y”. Nên giao Bộ Y tế (Cục Quản lý Y, Dược cổ truyền) ban hành quy chuẩn về giám định thành phần, tác dụng, công dụng ghi trên bao bì thuốc Đông y, tránh phụ thuộc vào từng Viện kiểm nghiệm riêng lẻ. Cho phép kết luận giám định tạm thời trong trường hợp chưa xác định đầy đủ hoạt chất, để phục vụ kịp thời việc khởi tố - truy tố - xét xử.
Thứ tư, đề nghị tăng cường cơ chế phối hợp điều tra - giám định - xử lý tang vật. Liên ngành cần thống nhất quy trình phối hợp giữa Cơ quan điều tra – Viện kiểm sát - Cục Quản lý Dược - Viện Kiểm nghiệm thuốc khi phát hiện sản phẩm nghi là thuốc Đông y giả. Cần có cơ chế giám định nhanh, ngân hàng mẫu thuốc chuẩn và kinh phí giám định riêng cho loại án này (vì có vụ án bị kéo dài do chờ kết quả giám định).
Thứ năm, Thường có yếu lợi dụng mạng xã hội, cần bổ sung tình tiết định khung tăng nặng trong hướng dẫn áp dụng Điều 194 Bộ luật Hình sự./.