Tiền tạm ứng án phí chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn: xác định như thế nào cho đúng???
Trong vụ án HNGĐ, người khởi kiện ngoài việc nộp tiền tạm ứng án phí hôn nhân không có giá ngạch thì người khởi kiện còn có thể phải nộp tiền tạm ứng án phí chia tài sản chung hoặc nghĩa vụ chung của vợ chồng nếu người khởi kiện yêu cầu; có một số quan điểm cho rằng việc xác định tiền tạm ứng án phí là không quan trọng vì tiền tạm ứng án phí chỉ là dự tính ban đầu của Tòa án để thụ lý hồ sơ vụ án. Sau khi có Bản án hoặc Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì tiền tạm ứng án phí sẽ được xem xét khấu trừ đối với nghĩa vụ án phí mà họ phải chịu theo luật định. Trong trường hợp nếu tiền tạm ứng án phí còn dư thì sẽ hoàn trả lại tiền chênh lệch cho người khởi kiện, ngược lại tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện nộp trước thấp hơn nghĩa vụ án phí mà họ phải chịu thì phải nộp thêm tiền chênh lệch còn thiếu.
Page Content

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu Tòa án tùy tiện trong cách tính tạm ứng án phí mà không thống nhất thì có thể dẫn đến hậu quả là thất thu ngân sách Nhà nước trong trường hợp sau khi có Bản án hoặc Quyết định có hiệu lực pháp luật mà buộc đương sự phải nộp thêm tiền nhưng đương sự lại không có tiền giao nộp thêm hoặc nếu tính tạm ứng án phí lúc đầu quá cao thì dẫn đến đương sự không đủ khả năng tài chính để nộp và không khởi kiện được, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Vì vậy, việc tính tạm ứng án phí cho phù hợp trong giai đoạn thụ lý vụ án rất cần thiết.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về việc áp dụng khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 326) về cách xác định tiền tạm ứng án phí trong việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Tác giả xin được trao đổi một tình huống cụ thể:
Trong vụ án ly hôn giữa nguyên đơn là chị A với bị đơn là anh B; trong đơn khởi kiện thì ngoài yêu cầu Tòa án giải quyết hôn nhân giữa chị với anh B thì chị còn yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng. Tổng giá trị tài sản bằng hiện vật bao gồm nhà, xe mô tô, tủ lạnh, máy điều hòa… theo chị A trình bày là khoảng 500.000.000 đồng. Khi ly hôn, chị A đồng ý để lại toàn bộ tài sản bằng hiện vật như trên cho anh B được quyền sở hữu và yêu cầu anh B có trách nhiệm hoàn trả lại một nửa giá trị tài sản chung cho chị với số tiền là 250.000.000 đồng; vậy cách xác định tiền tạm ứng án phí trong việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn như thế nào?
Quan điểm 1: Chị A phải nộp tiền tạm ứng án phí bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm dựa trên giá trị tài sản mà chị A đang tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết là 500.000.000 đồng. Theo đó thì việc tính tiền tạm ứng án phí dựa trên giá trị tài sản mà đương sự đang tranh chấp yêu cầu Tòa án giải quyết chứ không dựa trên giá trị tài sản mà đương sự yêu cầu được hưởng, bởi vì:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 326/2016 thì mức tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch mà Tòa án dự tính theo giá trị tài sản tranh chấp mà đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết, tức là toàn bộ giá trị tài sản tranh chấp chứ không phải dựa trên giá trị tài sản mà đương sự yêu cầu được hưởng. Nguyên đơn là người đi khởi kiện do đó họ phải có trách nhiệm nộp tiền tạm ứng án phí trên toàn bộ giá trị tài sản tranh chấp; nếu bị đơn cũng yêu cầu Tòa án giải quyết theo như tài sản chung mà nguyên đơn liệt kê thì bị đơn sẽ không phải nộp tiền tạm ứng án phí. Tuy nhiên, sau khi có Bản án hoặc Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì đương sự được nhận giá trị tài sản nào thì phải chịu tiền án phí đối với tài sản đó. Đồng thời tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp trước đây sẽ được khấu trừ để hoàn trả hoặc buộc phải nộp thêm so với nghĩa vụ mà nguyên đơn phải chịu.
Quan điểm 2 và cũng là quan điểm của tác giả: Chị A phải nộp tiền tạm ứng án phí bằng 50% mức án phí dân sự sơ thẩm dựa trên giá trị tài sản mà đương sự yêu cầu được hưởng là 250.000.000 đồng, bởi vì:
- Thứ nhất, tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 326/2016 thì “Mức tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án dân sự không có giá ngạch bằng mức án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch. Mức tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án dân sự có giá ngạch bằng 50% mức án phí dân sự có giá ngạch mà Tòa án dự tính theo giá trị tài sản có tranh chấp do đương sự yêu cầu giải quyết nhưng tối thiểu không thấp hơn mức án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án dân sự không có giá ngạch”. Theo đó, mức tạm ứng án phí được xác định dựa trên giá trị tài sản tranh chấp do đương sự yêu cầu giải quyết, tức là dựa trên giá trị tài sản tranh chấp mà đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết được hưởng.
- Thứ hai, theo quy định điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016 quy định “các đương sự trong vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về việc chia tài sản chung của vợ chồng thì ngoài việc chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án dân sự không có giá ngạch, còn phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp như đối với vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia”. Do đó, khi tính tiền tạm ứng án phí thì Tòa án sẽ tính trên số tiền mà đương sự yêu cầu được hưởng.
- Thứ ba, để đảm bảo quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cũng như nghĩa vụ của bị đơn trong trường hợp có yêu cầu liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng. Việc buộc nguyên đơn phải nộp tạm ứng án phí đối với toàn bộ giá trị tài sản tranh chấp có thể gây trở ngại cho nguyên đơn trong việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; việc này không làm mất đi quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, vẫn đảm bảo tính công bằng và hợp lý đối với bị đơn, nếu sau khi thụ lý vụ án mà bị đơn có yêu cầu giải quyết đối với tài sản chung của vợ chồng thì bị đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí tương ứng với yêu cầu của mình.
Trên đây là quan điểm của tác giả, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý độc giả./.
Lê Anh Ngọc, Phó Viện trưởng, VKSND huyện Ngọc Lặc